Tôi biết ơn bạn vì đã liên lạc. Ngày nay, khi có đám mây mờ đang che phủ Giáo hội, chắc chắn sẽ không ít người nghĩ rằng bạn thật kỳ lạ khi nghĩ đến chức linh mục. Có thể cũng có những người khác lại khen ngợi bạn vì sự anh hùng. Thực ra cả hai phản ứng này đều quá đáng. Đối với một thanh niên Công giáo nhiệt thành trong đức tin của mình thì suy nghĩ nghiêm túc về việc trở thành linh mục là điều bình thường và hợp lý. Vấn đề là, nếu bạn có ơn gọi trở thành linh mục, bạn nên mở lòng đón nhận vì đó là một ơn gọi đặc biệt. Thật đáng tiếc là ngày càng có nhiều người trẻ không cân nhắc điều đó một cách nghiêm túc và đón nhận ơn gọi.
Thay vì lời khuyên, tôi xin được bắt đầu với định nghĩa. Về cơ bản, chức linh mục là gì? Thư gửi tín hữu Do thái và Thư thứ nhất gửi Timôthê cho chúng ta câu trả lời. Chức linh mục trước hết liên quan đến chính Chúa Giêsu, Đấng là “vị Thượng tế” duy nhất của toàn thể nhân loại (Dt 7,26) và là “vị Trung gian” giữa Thiên Chúa và loài người (1 Tm 2,5). Theo truyền thống, chức tư tế của Đức Kitô được hiểu là hoạt động theo hai hướng, đi xuống và đi lên. Các ân sủng của Thiên Chúa ban cho con người qua chức tư tế độc nhất của Đức Kitô vì Người là nguồn ân sủng và chân lý duy nhất cho toàn thể nhân loại. Cộng đồng nhân loại cũng hướng về Thiên Chúa trước hết là qua sự vâng phục, tôn kính và cầu nguyện của nhân tính Đức Kitô, vì Người là “Ðấng khai mở lòng tin của chúng ta” (Dt 12,2).
Chức linh mục thừa tác trong Giáo hội Công giáo bắt đầu từ hai hình thức tham gia này. Mỗi linh mục Công giáo là một con người yếu đuối, giới hạn, được kêu gọi tham gia vào sứ mạng tư tế của Đức Kitô một cách hoàn toàn phái sinh và phụ thuộc. Sự “đi xuống” diễn ra qua sự thông truyền chân lý thần linh và ân sủng bí tích, trong đó linh mục là khí cụ của Thiên Chúa bất kể những giới hạn của mình. Sự “đi lên” chủ yếu diễn ra trong phụng vụ và việc điều hành mục vụ của linh mục, vì linh mục hướng dân Kitô hữu tới việc thờ phượng đích thực và đời sống thánh thiện. Theo cả hai nghĩa này, linh mục được mời gọi ngày càng nên giống Đức Kitô và hoán cải nhờ bí tích truyền chức và đời sống cầu nguyện, giảng dạy và chăm sóc các linh hồn. Nếu linh mục thực hiện điều này với sự ngoan nguỳ chân thành trước ân sủng của Thiên Chúa, thì ánh sáng của Đức Kitô sẽ chiếu soi thế giới qua tác vụ của ngài. Nếu linh mục làm điều này khi đối kháng hoặc chối bỏ mầu nhiệm đích thực của Đức Kitô, thì họ sẽ trở thành một thực thể mâu thuẫn mà trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô bị che khuất một cách đau đớn, gây phương hại cho Giáo hội và thậm chí là gương mù cho các tín hữu. Vì vậy, rủi ro rất cao, nhưng ngay cả khi bạn nghĩ đến điều này, bạn cũng không nên sợ hãi. Ân sủng của Đức Kitô ở với tất cả những ai được kêu gọi làm linh mục.
Do đó, mục đích đầu tiên của việc tìm kiếm chức linh mục là ở trong sự hiện diện của Đức Kitô. Ơn gọi chỉ có ý nghĩa khi chúng ta luôn gắn bó với Người, với mầu nhiệm, sự thật và Giáo hội của Người. Đức Kitô ban cho các linh mục một sự kiên định nội tâm nhất định theo thời gian. Sống trong Đức Kitô là trở nên mạnh mẽ chứ không bất an. Nhưng đây là sự ổn định có tính năng động: Nó chỉ có tác dụng nếu thừa tác viên vẫn giữ tinh thần nghèo khó và ngoan nguỳ với Chúa Giêsu, hành động trong Người và vì Người. Đây là một điều gì đó sâu xa hơn một danh sách kiểm tra trách nhiệm hoặc một thái độ đạo đức chân thành. Đó là một thói quen xuất phát từ Chúa Thánh Thần. Vì vậy, tốt nhất là nên bắt đầu với thực tế này.
Tôi xin đề cập đến một vài ý tưởng cơ bản về sự phân định chức linh mục và sự chuẩn bị thích hợp. Trước hết, nói ngắn gọn về động cơ. Tại sao một người lại muốn trở thành linh mục? Tôi sẽ cảnh giác với những người cho rằng cần phải tự phân tích tâm lý kéo dài về điểm này. Tất nhiên, chúng ta cần tìm hiểu để biết về bản thân. Nhưng ơn gọi không nảy sinh từ một hành động suy xét nội tâm và càng không đòi hỏi chúng ta phải trải qua một bi kịch nội tâm như điều kiện tiên quyết để gia nhập chủng viện. Lối suy nghĩ đó có thể dễ dàng trở thành nguyên nhân của sự tự kỷ ái mộ. Về cơ bản, ơn gọi xuất phát từ ước muốn nhận biết Đức Kitô và gắn kết với Thiên Chúa, bất kể ước muốn tự nhiên và bình thường của chúng ta về hôn nhân và con cái. Chủng sinh là người đã từ bỏ thực tại tự nhiên rất tốt đẹp của đời sống gia đình để sống cho điều mà họ đã học biết để khao khát nhiều hơn nữa: tìm kiếm Thiên Chúa.
Bạn cũng nên thận trọng với những người định nghĩa ơn gọi linh mục chủ yếu theo nghĩa công ích hoặc hạnh phúc cá nhân. Văn hóa Mỹ có xu hướng suy nghĩ chủ yếu theo cách thực dụng và trị liệu. "Nếu bạn là một linh mục, bạn sẽ có ích cho người khác và được mãn nguyện về mặt tâm lý". Có lẽ là cả hai, ít là trong một số trường hợp. Nhưng đây là những động cơ phiến diện. Động lực thực sự nâng đỡ một người trong chức linh mục là ước muốn làm theo ý Chúa và tìm kiếm Ngài. Một Viện phụ dòng Bênêđictô từng nói với tôi, “Những lý do khiến tôi nghĩ rằng tôi gia nhập không phải là những lý do khiến tôi ở lại”. Theo thời gian, một người vẫn ở lại trong ơn gọi, giữa niềm vui và đau khổ, được người đời nhìn nhận hoặc khinh miệt vì không theo văn hóa thời đại, ấy là vì Thiên Chúa mà thôi. Sự kiên định của chức linh mục đặt nền tảng trên sự kiên định của Thập giá. Sự kiên định đến từ Thiên Chúa, từ ý muốn và ân sủng của Ngài chứ không phải từ sự đánh giá của con người về giá trị hay thành công, từ sự tự vấn nội tâm hay những lý lẽ thực dụng.
Cách thế tích cực để diễn đạt điều này là từng chút một linh mục học sống cho Chúa chứ không cho bất kỳ thụ tạo nào. Linh mục là một dấu chỉ cho thế giới biết rằng con người có thể sống cho chính Thiên Chúa, hạnh phúc vì hiểu biết và yêu mến Chúa, vì Thiên Chúa đáng được như thế. Thánh Augustinô diễn đạt điều này một cách mạnh mẽ hơn: Không có gì đáng để yêu vì chính nó, ngoại trừ Thiên Chúa. Theo nghĩa này, linh mục là người trước hết phải học cách từ bỏ các thần tượng của mình. Chỉ còn lại một mình Thiên Chúa. Những thứ khác chỉ là tro bụi. Đây là lý do tại sao chứng tá của Giáo hội phụ thuộc sâu sắc vào tính triệt để của đời sống tu trì và chức linh mục. Những chức vụ này nhằm thể hiện một cách hữu hình rằng chính Giáo hội hiện hữu vì Thiên Chúa. Và nếu Giáo hội Công giáo không thể làm bất cứ điều gì vì Thiên Chúa thì Giáo hội cũng không thể làm bất cứ điều gì thực sự quan trọng trong thế giới ngày nay. Cuối cùng, những nỗ lực của Giáo hội để biện minh cho sự tồn tại của chính mình sẽ trở nên thảm hại khi Giáo hội cố gắng chứng minh sự hữu ích của mình bằng những thuật ngữ thuần túy về con người, chính trị hoặc thế tục.
Ý tưởng thứ hai: Đời sống linh mục xoay quanh chân lý của giáo lý Công giáo. Đây là điều mà nhiều người dường như mắc sai lầm trong Giáo hội ngày nay. Có nhiều người, cả “cấp tiến” lẫn “truyền thống”, miễn cưỡng chấp nhận sứ vụ giảng dạy của Giáo hội. Doctrina trong tiếng Latinh có nghĩa là “giảng dạy”. Giáo hội truyền đạt mạc khải của Đức Kitô đã được ủy thác cho các Tông đồ. Trên bình diện thực tế, không ai chịu trách nhiệm cơ bản về vấn đề này hằng ngày hơn linh mục Công giáo, và với tư cách là linh mục, nếu chúng ta không thấy rõ điều đó thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên cằn cỗi. Ngoài việc cử hành các bí tích, trách nhiệm chính yếu của linh mục là giảng dạy đức tin. Nếu hiện nay, sự tục hóa đang diễn ra ở nhiều vùng rộng lớn của Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, thì lý do chính là chức năng truyền thống này của chức linh mục đang bị phớt lờ hoặc thực hiện một cách tồi tệ.
Khi nói rằng linh mục có nhiệm vụ giảng dạy giáo lý tông truyền, tôi không có ý nói rằng bạn phải là một người trí thức uyên bác, và chắc chắn không phải là một học giả chuyên môn. Liệu Thánh Phaolô là một giáo sư thần học chăng? Thật ra, trách nhiệm của linh mục rất khác nhau: Linh mục giáo xứ thì cần hướng dẫn mọi người ở mọi cấp độ và mọi lứa tuổi, từ việc dạy giáo lý cho trẻ em đến việc hướng dẫn những người thuộc tầng lớp lao động, cho đến các chuyên gia, học giả và các nhà lãnh đạo văn hóa trẻ. Ở một số khía cạnh, điều này thách đố hơn so với những gì các học giả làm, nhưng bạn không cần bằng tiến sĩ để làm được điều đó. Nếu một linh mục trình bày các mầu nhiệm đức tin một cách đơn giản, rõ ràng và xác đáng cho người khác, thì Chúa Thánh Thần hoạt động qua vị linh mục ấy bất kể những giới hạn của ngài. Thật đáng kinh ngạc về điều có thể xảy ra chỉ qua việc trình bày rõ ràng và can đảm những giáo huấn trong Sách Giáo Lý. Điều quan trọng là không đánh giá thấp sức mạnh của chân lý.
Việc đào tạo tại chủng viện sẽ cho bạn thời gian để nghiên cứu các chân lý cơ bản của đức tin và thực hành việc truyền đạt chúng cách rõ ràng vừa phải. Những đức tính cơ bản bạn cần rèn luyện trong giai đoạn đầu này là tính hiếu học và sự can đảm. Bạn cần hình thành thói quen học hỏi đức tin hằng ngày và phát triển lòng can đảm để nói với người khác một cách rõ ràng về đức tin với sự thận trọng và tình yêu thương, chứ không cứng nhắc hay phòng thủ. Điều này quan trọng vì cuộc khủng hoảng trong chức linh mục hiện nay trước hết là cuộc khủng hoảng về đức tin, và như Thánh Tôma Aquinô đã lưu ý, đức tin là một ân sủng siêu nhiên được ban chủ yếu cho trí tuệ, chứ không phải cho con tim. Ân sủng này hệ tại sự phán đoán đúng đắn về chân lý của Kitô giáo, và chân lý đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta ra sao. Một Giáo hội và một chức linh mục nếu không có sự phán đoán của trí năng về Đức Kitô có nguy cơ không chỉ biến thành một Giáo hội không có đức tin… mà còn là một Giáo hội không có tình yêu, vì tình yêu được hướng dẫn và am hiểu từ bên trong bằng việc hướng tới chân lý. Điểm mấu chốt là bạn cần trau giồi dần dần một đời sống tri thức Kitô chân chính, trong đó bạn học cách nhìn thực tại dưới ánh sáng của Đức Kitô. Đây là điều sẽ cho phép bạn loan báo Tin Mừng và giúp người khác vững vàng trong cơn giông bão.
Ý tưởng thứ ba: Thách đố cốt lõi là để cho ân sủng của Thiên Chúa tác động đến tất cả những ước muốn sâu xa nhất trong trái tim bạn. Chức linh mục là để tâm hồn bạn được tình yêu Thiên Chúa định hướng lại. Đây là một tiến trình kéo dài suốt đời. Linh mục trước hết và trên hết là một tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa, nghĩa là linh mục cũng là một người không ngừng quy phục Thiên Chúa, một tội nhân luôn được Thập giá cứu chuộc và được Thập giá tôn vinh. Nietzsche nói rằng linh mục chỉ nguy hiểm nếu ông ta yêu thực sự, theo đó Nietzsche muốn nói rằng ảo tưởng về Kitô giáo chỉ bén rễ nếu người đó là một kẻ cuồng tín nhiệt thành. Nói cách bí nhiệm thì Nietzsche đúng. Tình yêu của Thiên Chúa phải hướng dẫn chúng ta nếu chúng ta muốn trở nên hữu dụng thực sự đối với người khác. Giáo hội không phải là cơ quan của các quan chức tôn giáo. Thánh Bernard Clairvaux nói về đan sĩ Xitô như một con sư tử hoang, bị nhốt trong phòng giam đan viện nhưng không ngừng gầm lên với Thiên Chúa. Linh mục có nghĩa là một người hát rong chứ không phải là một người quản lý. Khi một người thực sự yêu mến Thiên Chúa thì tình yêu đó có tính lây lan.
Những giáo dân bình thường của Giáo hội – tức là dân Chúa – thường yêu mến các linh mục, vốn là những người phục vụ họ, và tôn kính mầu nhiệm của chức linh mục. Tuy nhiên, dân Chúa chỉ làm như vậy khi họ cảm thấy rằng linh mục thực sự ở bên cạnh họ, quan tâm đến họ, và sát cánh với họ trong những cơn khủng hoảng và duới thập giá của họ. Phần lớn sự tin tưởng của họ vào những gì Giáo hội dạy đều dựa trên những gì họ nhìn thấy trong đời sống của các nhân sự của Giáo hội. Khi một linh mục nhiệt tâm chuẩn bị cho tín hữu bước vào hôn nhân, giải tội với lòng trắc ẩn, thăm viếng giáo dân hoặc người thân của họ khi họ đau ốm, an ủi khi họ đau khổ, và cử hành lễ an táng với niềm tin vào sự sống lại, thì các tín hữu sẽ tin vào chức linh mục, và vào những gì Giáo hội dạy.
Hãy thận trọng trước những cạm bẫy của văn hóa mang tính giáo sĩ: Việc có được những tiện nghi vật chất không phải là sự thay thế nhằm bù đắp cho đời sống độc thân, cứ như thể việc thường xuyên ăn uống ở các nhà hàng và du lịch quốc tế là sự bù đắp hợp pháp cho đời sống không lập gia đình. Hãy cố gắng trở thành kiểu chủng sinh đeo găng tay lao động và rửa bát, chứ không phải là người tìm cách để được phục vụ hay quý trọng. Linh mục dành thời gian cho những người thất vọng và cô đơn, chứ không chỉ cho những người làm việc hữu hiệu hoặc thành đạt (mặc dù những người này cũng quan trọng trước mặt Chúa). Ngoài ra, hãy lưu ý đến đời sống tình cảm của bản thân. Nếu đang chuẩn bị cho chức linh mục, bạn cần phải vun trồng tình bằng hữu lành mạnh. Mỗi chủng sinh và linh mục đều cần có những người bạn mà mình có thể tâm sự, thường là đồng nghiệp, và có lẽ đôi khi cả những đôi vợ chồng đồng trang lứa hoặc lớn tuổi hơn. Các mối tương quan của chúng ta cần được đặc trưng bởi những ranh giới thích hợp, và tất nhiên phải hết sức trong sáng (về phương diện tình cảm cũng như thể lý), nhưng không quá hình thức hoặc máy móc. Hãy nghiêm túc và đừng bao giờ từ bỏ khả năng nói ra những gì bạn nghĩ theo cách thích hợp.
Điều đó nói lên rằng, nếu một người nam đang chuẩn bị cho thiên chức linh mục và vẫn muốn có tình bạn mãnh liệt về mặt tình cảm với những phụ nữ trẻ, thì người ấy đang tự lừa dối mình. Ân sủng không phá hủy tự nhiên. Nếu một người có ơn gọi, người ấy vẫn có thể cảm nhận được sự hấp dẫn tự nhiên đối với phụ nữ, và đây là một trong những điểm trọng tâm mà những ranh giới và khổ chế đóng vai trò quan trọng trong thời gian một người chuẩn bị chịu chức linh mục cũng như sau đó.
Nền văn hóa của chúng ta không hiểu hoặc không coi trọng đời sống độc thân linh mục, và theo một cách nào đó, thì đây là một điều tốt. Đây là cơ hội để làm chứng triệt để cho Đức Kitô. Độc thân là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn: Nó cho mọi người thấy rằng chúng ta có thể sống cho điều gì đó vượt trên trật tự thụ tạo, sống cho chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong thời đại của chúng ta, người ta không tin vào bất cứ hình thức cam kết suốt đời nào. Lời thề hứa chung thủy trong hôn nhân và quyết định sinh con cũng là điều khó hiểu đối với nhiều người. Điều này không có nghĩa là những người đương thời của chúng ta thoải mái với vấn đề tình dục của họ. Sự phổ biến của phim ảnh khiêu dâm, việc sống chung mà không sinh sản, và việc sống đơn độc kéo dài mà không kết hôn và sinh con đang khiến người ta phải suy nghĩ lại về các giá trị của cuộc cách mạng tình dục. Trong bối cảnh này, đời sống độc thân linh mục vì Đức Kitô được coi là một điểm định hướng. Bạn cho mọi người thấy, dù họ thất bại hay thành công trong lãnh vực này, rằng họ có thể dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, và chính việc sống khổ chế của họ được Giáo hội coi trọng.
Não trạng thế tục nghi ngờ đời sống độc thân là một vấn đề của sự kìm nén và hy sinh khoái cảm tình dục một cách vô nhân đạo. Nhưng khi đời sống này được sống một cách đúng đắn, thì chức linh mục sẽ có vẻ đẹp như một cách thức tận hiến cho Thiên Chúa một cách nhân bản và hết sức nam tính. Đời sống độc thân linh mục đích thực cho chúng ta thấy một hình thức nam tính mang tính tâm linh và cao cả. Nó giúp những người nam khác trở thành người những chồng tốt hơn, biết hy sinh bản thân và giúp người nữ vượt thắng một số phức tạp của chứng thần kinh về quyền lực, sự oán giận và sự quyến rũ. Thực ra, đời sống độc thân linh mục biểu lộ một điều gì đó sâu xa chỉ có thể tồn tại giữa người nam và người nữ trong Đức Kitô: tình bằng hữu thiêng liêng đích thực.
Trong sự đánh giá của Giáo hội về đời sống độc thân, thì chân lý về chính Đức Kitô cũng đang bị đe dọa. Mẫu gương của Người là tâm điểm Kitô học về đời sống độc thân không thể bỏ qua. Bản thân Đức Kitô là người độc thân, cũng như Thánh Phaolô, Thánh Gioan, và nhiều vị thánh khác, cũng như Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Liệu chúng ta có hiểu được cuộc sống mầu nhiệm của những người rất thánh thiện này không? Đời sống độc thân linh mục phản ánh và thể hiện thực tại này trong lòng Giáo hội. Liệu thân phận con người đáng thương của chúng ta có thể mang dấu ấn bắt chước Đức Kitô về khía cạnh này chăng? Lịch sử nói có. Theo một nghĩa nào đó, hoa trái của Giáo hội bắt nguồn từ việc Giáo hội cam kết sống độc thân nơi đời sống của các dòng tu. Trước hết, chính những tu sĩ đã mang Phúc âm đến các lục địa bên ngoài Châu Âu, và trên hết, cũng chính họ là những người hiện nay thường loan báo Tin Mừng tại những nơi chưa từng biết Đức Kitô cũng như những nơi trước đây là Kitô giáo. Các linh mục độc thân có thể không có con cháu về mặt thể lý, nhưng nhờ Phép Rửa, họ có hàng triệu con cái. Những kẻ thù của chúng ta có tư tưởng hoài nghi, tình dục hóa quá mức có thể chế giễu, nhưng số liệu thống kê dân số đang giảm dần lại cho thấy sự tự tin sai lầm của họ. Hãy phớt lờ sự tuyệt vọng của những người có ý kiến bất đồng và tìm kiếm sự thanh khiết trong Đức Kitô.
Chúng ta nên làm gì trước cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục và khủng hoảng uy tín của chức linh mục và giám mục? Tôi chắc rằng khi bạn nói với người khác rằng bạn đang nghĩ về chức linh mục, đây là điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí nhiều người.
Ở một khía cạnh nào đó, đây thực sự là điều đáng lo ngại. Chúng ta phải có một xác tín rõ ràng về sự cần thiết của công lý con người và tính toàn vẹn giáo hội ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế. Nếu bạn đang ở trong chủng viện hoặc linh mục triều hoặc linh mục dòng và bạn gặp phải những cá nhân có vấn đề trong lãnh vực này, bạn phải thẳng thắn và giúp đưa mọi việc ra ánh sáng. Uy tín của Giáo hội sẽ không được phục hồi hoàn toàn cho đến khi tất cả các linh mục và giám mục phải tuân theo một loạt kỷ luật chặt chẽ và hợp lý, với những quy tắc khổ chế và sự thực hành nhất quán. Điều này đang diễn ra từng chút một, bất chấp những trở ngại thực sự mà chúng ta thấy. Sự phẫn nộ có tác dụng của nó, nhưng sự lạc quan cũng thế.
Nói cách khác, là một người đang tìm kiếm Thiên Chúa, bạn không nên lo lắng quá nhiều về vấn đề này. Là một Kitô hữu, bạn có nghĩa vụ tìm niềm vui trong Thiên Chúa trên hết và vượt trên mọi khiếm khuyết và thất bại thảm hại của con người trong Giáo hội. Toàn bộ ý nghĩa của cụm từ ex opere operato (do sự) là việc cử hành các bí tích làm cho Đức Kitô hiện diện với Giáo hội bất kể mọi khiếm khuyết của con người. Toàn bộ ý nghĩa của đặc sủng bất khả ngộ về tín điều trong Giáo hội là giáo lý tông truyền vẫn luôn rõ ràng và không thể sai lầm ngay cả khi một số nhân sự của Giáo hội không sống theo giáo lý đó hoặc thậm chí không tin vào giáo lý đó.
Tôi không khuyên bạn nên thờ ơ nhưng hãy đặt các mối quan tâm theo thứ tự ưu tiên. Nền tảng thần linh của Giáo hội được đặt lên hàng đầu, chứ không phải các thừa tác viên nhân loại của Giáo hội. Đức tin siêu nhiên vào Đức Kitô đặt chúng ta trên những nền tảng mà ở đó chúng ta có thể tiếp xúc thường xuyên với Đức Kitô, một “viên đá sống động” (1 Pr 2,4) không bị hoen ố bởi những sai lầm của phận phàm nhân chúng ta. Nếu bạn học cách sống ở cấp độ đó, bạn sẽ thấy Giáo hội trong chiều sâu của Giáo hội và yêu mến Giáo hội một cách đúng thực vì Giáo hội luôn kết hợp với Đức Kitô và được sinh động bởi sự thánh thiện của Người. Nhận thức này, không chỉ là một hình thức trốn chạy, nhưng mang lại cho bạn sự can đảm để đấu tranh cho việc canh tân Giáo hội và hàng giáo sĩ mà không nhượng bộ trước sự chán nản hay hoài nghi.
Mọi người đều được mời gọi để hưởng hạnh phúc, nhưng theo những cách thế và những nhịp điệu khác nhau trong cuộc sống. Kết hôn là cách thế tự nhiên và hợp lý nhất để tìm được hạnh phúc trong thế giới này. Tôi có vô số bạn bè, những người thực sự bắt đầu hạnh phúc khi lần đầu trở thành cha mẹ và “tìm thấy chính mình” qua việc trở thành cha hoặc mẹ. Nhưng những người lập gia đình cũng trải qua những hạn chế của hạnh phúc trong đời sống này. Họ cảm thấy cần phải hoán cải sâu xa hơn để trở về với Thiên Chúa như là niềm hy vọng và nguồn hạnh phúc chung cuộc của mình. Nơi hầu hết mọi người, điều này diễn ra từng đợt trong suốt cuộc đời.
Trong khi đó, linh mục bỏ qua một số công đoạn. Suy cho cùng, ơn gọi linh mục là một ơn gọi hướng tới hạnh phúc, nhưng với một nhịp điệu khác và ở một tầm cao hơn. Bằng việc sống mà không có được hạnh phúc gia đình một cách tự nhiên, linh mục phải “tái ổn định” ở mức cao hơn. Điều này vừa an ủi vừa thách thức, giống như sự nghỉ ngơi thể lý không đến từ việc ngủ, mà đến từ việc tạm dừng trong quá trình leo đều đặn lên đỉnh cao. Chúng ta không thể tự mình bắt đầu cuộc leo núi, nhưng ân sủng của Thiên Chúa làm cho việc đó trở nên khả thi, không chỉ có thể chịu đựng được mà còn thanh thản và bình an. Trong Phúc âm Gioan, Đức Kitô nói về sự bình an không do thế gian ban tặng (14,27). Đây chính là trọng tâm của ơn gọi linh mục: trước hết là trở thành người bị giam cầm và sau đó là một sứ giả thường trực của sự bình an đó. Điểm mấu chốt là chúng ta đừng sợ thuận theo ơn gọi, tin tưởng vào hạnh phúc chỉ đến từ một mình Thiên Chúa mà thôi. Ngài đóng vai trò thiết yếu và chúng ta chỉ cần cộng tác.
Luân lý tính của chủ nghĩa tự do hiện đại vừa dễ dãi vừa không khoan nhượng. Đối với những người thế tục đương thời, mọi thứ đều phụ thuộc vào sự tự lập và tính chính thực của chúng ta, nhưng điều nghịch lý là, chúng ta có thể đạt được rất ít giá trị, và nếu chúng ta mất đi sự ủng hộ của thành phần ưu tú đang nắm giữ nền văn hóa này, thì sẽ không có cách nào quay trở lại được nữa. Đạo Công giáo đối lập với điều này về hầu hết mọi khía cạnh. Đời sống tâm linh của chúng ta không phụ thuộc chủ yếu vào thẩm quyền của chính mình. Thay vào đó, Thiên Chúa đi bước trước bằng món quà ân sủng trong Đức Kitô. Không có Người, có lẽ chúng ta không đạt được gì nhiều, nhưng cùng với Người, cuộc sống của chúng ta có được cả trọng tâm sâu sắc lẫn sự nhẹ nhàng tuyệt vời của hiện hữu. Ngay cả tội lỗi của chúng ta cũng “hữu dụng” nếu chúng ta trình bày với Đức Kitô. Người là nguồn mạch tha thứ và sự sống vĩnh cửu, để chúng ta có thể sống mà không phải tuyệt vọng.
Truyền thống đạo đức Công giáo bàn về hạnh phúc, sự khổ chế thánh thiện, niềm vui, sự tận hiến, khiêm tốn và giải thoát. Truyền thống ấy hướng chúng ta đến sự cao cả, và hứa hẹn với chúng ta tình yêu thần linh mãnh liệt. Nếu bạn theo đuổi chức linh mục và ơn gọi của bạn được Giáo hội xác nhận, thì cuối cùng bạn sẽ đứng ở điểm nối kết của mầu nhiệm này, chính bạn là người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, qua bí tích truyền chức thánh, được ràng buộc mãi mãi với Đức Kitô và thập giá của Người. Qua linh mục, sự sống thiêng liêng của Chúa Giêsu đi từ Golgotha đến thế giới, trong các bí tích và lời rao giảng tông đồ. Vừa lạ lùng vừa khắc nghiệt khi đứng ở điểm nối kết ấy, ở gần ánh sáng không bao giờ tắt, để ánh sáng đó từ từ thay đổi bạn, đốt cháy tâm hồn bạn và tâm hồn người khác thông qua bạn. Nhưng đó cũng là một cuộc sống đầy niềm vui. Tôi khuyến khích bạn hãy thuận theo tiếng gọi này.
Một lần nữa, cám ơn bạn vì đã viết thư. Xin hãy biết rằng tôi sẽ cầu nguyện cho bạn trong tiến trình phân định của bạn.
Nt. Anna Ngọc Diệp, Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: firstthings.com
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 141 (Tháng 05 & 06 năm 2024)